跳至內容

用戶:Betoseha/ㄨㄛㄎㄕㄛㄆ/南進

維基百科,自由的百科全書
南進年代圖。

南進越南語Nam tiến南進?),指的是11世紀18世紀之間越南領土向南方的擴張。

現在的越南佔據了中南半島東岸全域。其東(東京灣)、東南(南中國海)、南(泰國灣)面皆臨海洋,北部與中國的雲南省廣西壯族自治區鄰接,西部為將越南與柬埔寨老撾相隔的長山山脈,北方有紅河三角洲,南方有湄公河三角洲。然而,古代越南的領土卻並非與今天的一致,越南現在的版圖乃是18世紀後期時開始確立下來的。

在11世紀後的各個歷史時期,越南領土皆向南有過擴張。早期,越南的領土主要集中於紅河三角洲一帶,即現在越南的北方地區。由於越南當時的地理位置,其東面臨大海,西邊是山脈,北邊是強大的鄰國中國,因此南面成為越南領土擴張的最佳方向,「南進」的稱呼也因此得名。越南歷代的南進政策共持續了約700年,南進後的越南領土面積約為最初剛獨立時的3倍[1],18世紀後期以後,越南領土基本未發生改變。

概觀

[編輯]

自公元10世紀獨立以來至14世紀,因為確立國家統治機構、治水等國內諸因素的影響,越南的南進在早期並未能夠持續順利地進行[2]。與南方的鄰國占城的之間戰爭也是相互間各有勝負,一時進一時退。尤其是14世紀後半葉,越南陳朝面對占城的進攻,顯得難以招架。這段時期內,無戰爭的和平共存的時間相對較長,民眾階層的交易、人員往來等各種交流逐漸繁盛,文化上也互相影響。

1427年,越南脫離明朝統治【參見:安南屬明期後,黎利建立後黎朝,「南進」從此開始正式化。

黎聖宗(在位1460年-1497年)時代,占城當時的首都毘闍耶(Vijaya,今平定省歸仁)於1471年被越南軍隊攻陷,占族的王國踏上解體的道路。

吞併占城後,越南的南進繼續進行着。16世紀17世紀,由於越南內部分裂【參見:南北朝 (越南)鄭阮紛爭,南進一時停止。聖宗死(1497年)後,後黎朝的中央集權體制開始崩潰,16世紀後半葉,掌握實權的乃是北方的鄭主順化阮主,雙方南北對立,紛爭不斷。

從16世紀到17世紀,東亞東南亞地域以華僑為中心,南海東海的貿易發展迅速。越南南方的阮主歡迎來到貿易港會安的外國人。當時,日本是生絲的最大輸入國,為求得面向日本的輸出用的生絲的中國商人和日本商人,在南方的會安逐漸聚居,形成了諸如日本人町的僑民區。1603年日本德川幕府建立,其實行的「鎖國」政策(1635年)使日本的生絲輸入急劇減少。失去主要商品的越南,逐漸遠離海上國際貿易的幹線。

伴隨着貿易額的減少,依存於越南中部狹小的土地上的農業生產的阮主政權,17世紀中葉開始積極拓展南方的領土。至17世紀末,殘存的占族被肅清,阮主乘柬埔寨宮廷世嗣的紛爭之機擴大勢力,1698年將現在的胡志明市1880年1975年稱為「西貢」,1698年1880年稱為「嘉定」,其以前為柬埔寨的領土,被稱為「波雷·諾科」〔Prey Nokor〕)納入版圖。

18世紀以後,柬埔寨宮廷為了對抗來自泰國阿育陀耶朝(大城王國)的壓力,向越南的阮主求援,而阮主利用這個機會擴大了自己的勢力。至18世紀末,湄公河三角洲以及柬埔寨南部諸州被蠶食。

至此,現在的越南領土在18世紀末之前的南進後,大框架基本形成。

吞併占城

[編輯]

李朝、陳朝、胡朝

[編輯]
李朝時期(黃色部份)(綠色部份)對峙圖

在越南李朝陳朝胡朝的這段時期里,越南與南方的占城經常發生軍事沖突。就結果來看,越南方面略佔上風。

1044年李朝李太宗御駕親徵佔城,「斬首三萬級」、「斬佔主乍斗首於陣」、「生擒將卒五千眾人、獲馴象三十餘匹」、「遂入佛誓城俘佔主妻妾及宮女」[3]押回升龍(河內)。

1069年天貺寶象二年,由於當年的農曆七月改年號神武,因此《越史略》列入神武元年)農曆二月,李聖宗親征占城。(據陳仲金的記載,開戰的原因是「占城國常來騷擾。」)[4]軍在戰事中相當順利,節節擊敗占城軍,占城君主制矩越南語Chế Củ,占名:闍耶律陀羅跋摩〔Jaya Rudravarman〕,《越史略》作「第矩」)兵敗逃走。到農曆五月,「元帥阮常傑俘獲第矩於真臘界」。(陳守度後,強迫全國姓李者改姓阮,以斷絕國人對李氏的復國一類想法。)[5]

在這一役中,由於李常傑成功俘獲占城王,迫使他向軍求和「贖罪」,割讓了布政(越南語Bố Chính?)、地哩(越南語Địa Lý?)、麻令(越南語Ma Linh?[6]三州給李朝,然後將占城王釋放回國。後李聖宗將這片土地更名為新平(越南語Tân Bình?),即是現在的廣平省廣治省北部[7]

李常傑在1075年太寧二年),曾對占城進行了一次征戰,該戰役亦是宋越熙寧戰爭的其中一部份。依宋朝張方平提議,熙寧八年12月和熙寧九年2月宋朝派使臣出使占城真臘謀求合擊越南李朝。[8]占城也表示「願以兵助討交賊」。宋朝進攻交趾時占城曾「遣蕃兵七千扼交賊要路」。但占城和真臘的牽制並未對戰局產生明顯影響。

1104年龍符元化四年)農曆二月,李仁宗命年已老邁的李常傑再征占城。開戰原因,是由於造反的李覺逃亡入,勸占城君主制麻那進攻越南,並收復了先前割讓的地哩麻令布政三州土地。李常傑受命後,便又擊破占城,再度取得地哩、麻令及布政[9]

陳朝興隆十四年(1306年),越南與占城關系較為緩和,陳英宗把皇妹玄珍公主下嫁占城制旻越南語Chế Mân,占名:闍耶僧伽跋摩〔Jaya Simhavarman〕),得到烏、里二(今廣平省廣治省承天順化省)作為聘禮[10],翌年更名為順州化州,納入陳朝版圖,從此越南的領土向南擴張到海雲關

胡朝初期的1400年至1403年,越南軍隊不斷對占城採取軍事進攻,並將越南版圖從海雲關擴張到現廣義省北部地區。然而,這篇新領土在胡朝覆滅(1407年)之後,又被占城奪回。

後黎朝

[編輯]

後黎朝時期,占城與大越(當時越南的正式國號)的關系總體較好。

1446年黎仁宗派黎受、黎可率軍侵攻佔城都城,城陷後,擒得占城的國王及妃嬪,獲得大量象、馬、械仗。後班師回越南,並將佔城國王押回越南,另立傀儡貴來為占城新國王,向黎朗稱臣納貢。

1470年,越占關系開始緊張。是年,黎聖宗率軍二十萬進攻佔城。1471年,越軍攻佔占城京城闍槃(越南語Đồ Bàn?,今屬平定省),俘獲三萬餘人,斬四萬餘級,後殺死占王茶全越南語Trà Toàn?,占名:Pau Kubah),占城北方領土(從海雲關到今富安省北部石碑山〔越南語núi Thạch Bi?〕一帶)劃歸越南,於其地設立廣南道[11]/承宣廣南[12]。黎聖宗曾在新邊界的山壁上題字「占婆人過此兵敗國滅安南人過此兵死將亡」,至今依稀可見。

鄭阮紛爭時代(阮主)

[編輯]

1611年阮潢派Lương Văn Chánh南徵佔城(華英國),攻城略地後,建立富安府,分為兩縣,分別是Đồng Xuân和Tuyên Hòa。

1653年,占城人攻擊富安府,反為南阮軍擊敗,南阮又開闢了泰寧府。1653年,占城國王Bà ThấmPo Nraop)再次向富安派兵試圖重新控制這片地區。賢王阮福瀕藉此攻打Hùng Lộc, 後來Bà Thấm戰敗。 阮主 để từ 潘郎江(越南語sông Phan Lang滝潘郎?) trở vào cho 占王,còn từ 潘郎江 trở ra lấy làm 泰寧府,即後來的sau đổi làm 筵慶府(越南語phủ Diên Khánh府筵慶?),今屬慶和省。Tại đây đặt dinh Thái Khang để Hùng Lộc làm thái thú。

1661年南阮侵略占城,在「占城的土地上建立了富安府」[13]

1675年,阮氏藉口占城侵略富安,舉兵攻打占城藩郎以北地區,把占城驅逐到藩郎南的狹小範圍內。

1693年,阮氏藉口占城「不修藩臣之理」,再次進攻佔城,阮軍深入占城內地,活捉占王婆爭,押回富春(順化)。在潘郎江南岸地區設立了順城鎮,1697年改為平順府[14]。至此,占城的全部領土被越南吞併。現在,占族是越南少數民族之一。

1692年婆索(Po Sot)起兵反對廣南阮主的統治。阮福淍鎮壓了這次起義,並於1697年改占城國為「順城鎮」(Thuận Thành trấn)。但旋即賓童龍地區爆發了鼠疫。占城貴族屋牙撻(Oknha Dat)在清人將軍阿班(A Ban)的幫助下,於1695年擊敗了廣南留守軍。隨後阮福淍遣阮有鏡擊敗了他們。但不久婆索的弟弟繼婆子(Po Saktiray Da Patih)再興順城鎮,向阮福淍臣服並要求談判。談判的最終結果,雙方於1712年簽訂《議定五條》(Ngũ điều Nghị định),阮主與順城鎮完全講和並不再交戰。占城王被封為「鎮王」(Trấn Vương),並保持了這一稱號達135年。雖然占城國王在這片四處都是越南人的土地上沒有任何實際權力。[15][16]

1777年,廣南阮主被新興的西山朝推翻。順城鎮國王阮文召(Chei Krei Brei)舉兵支持盤踞嘉定的舊阮貴族阮福映。但不久阮福映被西山朝打敗,阮文召於1786年逃往真臘地區,順城君主的稱號由國王降為「掌奇」(相當於土司酋長)。在這段時期裏,不少順城鎮貴族投奔流亡暹羅的阮福映麾下,並積極參加反對西山朝的戰鬥,例如阮文召阮文豪(Po Ladhwan Paghuh)、阮文振(Po Chong Chon)、阮文永(Po Klan Thu)等人。

1802年阮福映奪取了越南政權。由於曾經受到順城鎮的幫助,阮福映在位期間給與了順城鎮種種優待。然而到了1832年阮朝明命帝實行中央集權政策,下令改土歸流,廢除了順城鎮。從此以後,占城人的國家完全滅亡。

侵佔真臘

[編輯]

阮主

[編輯]
Việt Nam thời Trịnh - Nguyễn phân tranh năm 1650

Trong thời kỳ này, nhiều dân Việt ở Đàng Trong bỏ dải đất miền Trung khắc nghiệt, vào khai khẩn đất làm ruộng ở Bà Rịa, Đồng Nai, Sài Gòn vốn là đất của Chân Lạp, nhưng không gặp phản kháng gì đặc biệt.

在這個時期,越南中部地區(越南語Đàng Trong塘中?

Năm 1623 chúa Nguyễn Phúc Nguyên nhân quan hệ hữu hảo với vua Chân Lạp Chey Chetta II (bố vợ - con rể), đã mượn vùng đất Prey Nokor (Sài Gòn ngày nay) của Chân Lạp đặt trạm và quan chức thu thuế lưu dân Việt đang sinh sống xung quanh ở Sài Gòn, Đồng Nai, Bà Rịa

Năm 1658, vua nước Chân Lạp mất, nội bộ nước Chân Lạp lục đục vì tranh giành ngôi. Chúa Nguyễn Phúc Tần đã giúp một hoàng thân Chân Lạp là Batom Reachea lên ngôi, đáp lại vị vua mới của Chân Lạp đã ký hiệp ước triều cống chúa Nguyễn hàng năm và cho phép người Việt được làm chủ vùng đất đã khai hoang ở Sài Gòn, Đồng Nai, Bà Rịa. Tại khu vực này lưu dân Việt sinh sống ngày càng đông đúc, chúa Nguyễn đã phải cử một đội quân mạnh để giữ gìn an ninh cũng như đặt các quan cai trị và thu thuế.

Năm 1679 có quan nhà Minh gồm Dương Ngạn Địch và phó tướng Hoàng Tiến là Tổng binh Trấn thủ đất Long môn (Quảng Tây - Trung Quốc), Trần Thượng Xuyên và phó tướng Trần An Bình là tổng binh châu Cao, Lôi, Liêm (Quảng Đông - Trung Quốc) không chịu làm tôi nhà Thanh, đem 3000 người cùng 50 chiếc thuyền sang xin ở làm dân Đại Việt. Chúa Nguyễn Phúc Tần nhân muốn khai khẩn đất Chân Lạp, bèn cho vào ở đất Đông Phố (Gia Định). Những người này chia nhau ở đất Đồng Nai, Biên Hòa, Mỹ Tho (Tiền Giang), cày ruộng, làm nhà, lập ra phường phố, có người phương Tây, Nhật Bản, Chà Và đến buôn bán khá đông.

Năm 1698 chúa Nguyễn Phúc Chu sai Nguyễn Hữu Cảnh làm kinh lược đất Chân Lạp. Ông chia đất Đông Phố của những người Tàu ra làm dinh, làm huyện, lấy Đồng Nai làm huyện Phúc Long và Sài Gòn làm huyện Tân Bình. Ông đặt Trấn Biên dinh (Biên Hòa), đất Trấn Biên thì lập làm xã Thanh Hà, và Phiên Trấn dinh (Gia Định), đất Phan Trấn thì lập làm xã Minh Hương, rồi sai quan vào cai trị. Chúa Nguyễn lại chiêu mộ những người lưu dân từ Quảng Bình trở vào để lập ra thôn xã và khai khẩn ruộng đất, những người Việt và Tàu ở đây đều thuộc về sổ bộ nước Việt của chúa Nguyễn. Năm 1699 vua Ang Em của Chân Lạp tổ chức một cuộc phản công nhằm dành lại nhưng bị thất bại.

Mạc Cửu, một người gốc Quảng Đông, khi nhà Thanh cướp ngôi nhà Minh đã cùng gia quyến bỏ sang Chân Lạp năm 1680 khai khẩn và cai quản 7 xã gồm toàn lưu dân, gọi là Hà Tiên, Mạc Cửu mở rộng đất đai của mình gồm vùng đất Hà Tiên, Rạch Giá, Phú Quốc khi đó đang thuộc Chân Lạp nhưng Chân Lạp không kiểm soát được.

Năm 1708 để tránh áp lực thường xuyên của Xiêm La sang cướp phá, Mạc Cửu đã dâng đất khai phá xin nội thuộc về chúa Nguyễn Phúc Chú, chúa Nguyễn đổi tên thành Trấn Hà Tiên, phong cho Mạc Cửu làm chức Tổng binh, cai quản đất Hà Tiên. Khi Mạc Cửu mất, con là Mạc Thiên Tứ lại được làm chức đô đốc, tiếp tục cai quản Hà Tiên. Mạc Thiên Tứ đắp thành, xây lũy, mở chợ, làm đường và đưa người về dạy Nho học để khai hóa đất Hà Tiên.

Từ năm 1735 - 1739 Mạc Thiên Tứ mở rộng đất đai kiểm soát của mình sang bán đảo Cà Mau, Bạc Liêu, Hậu Giang, Cần Thơ. Đưa thêm các vùng đất mới này vào Trấn Hà Tiên thuộc lãnh thổ Đàng Trong

Năm 1732, chúa Nguyễn Phúc Chú tiến chiếm vùng đất ngày nay là Vĩnh Long, Bến Tre, dựng dinh Long Hồ trực thuộc phủ Gia Định

Năm 1753, biết vua Chân Lạp là Nặc Nguyên (Ang Tong) thông sứ với chúa Trịnh ở ngoài Đàng Ngoài để lập mưu đánh chúa Nguyễn, chúa Nguyễn Phúc Khoát sai Nguyễn Cư Trinh sang đánh Nặc Nguyên. Năm 1755, Nặc Nguyên thua bỏ thành Nam Vang chạy sang Hà Tiên nhờ Mạc Thiên Tứ, rồi xin dâng hai phủ Tầm Bôn và Lôi Lạp (nay là Tân AnGò Công) cho chúa Nguyễn để cầu hòa.

Năm 1757 Nặc Nguyên mất, chú họ là Nặc Nhuận dâng hai phủ Trà Vinh và Ba Thắc (Sóc Trăng) xin chúa Nguyễn Phúc Khoát phong cho làm vua Chân Lạp. Sau đó Nặc Nhuận bị người con rể là Nặc Hinh giết và cướp ngôi. Quan tổng suất là Trương Phúc Du thừa kế sang đánh thắng Nặc Hinh. Chúa Nguyễn cho lập Nặc Tôn (Outey II) [17], con Nặc Nhuận vốn đang nương nhờ Mạc Thiên Tứ ở Hà Tiên trong lúc hoạn nạn làm vua Chân Lạp. Nặc Tôn dâng đất Tầm Phong Long (vùng đất nằm giữa Sông Tiền và Sông Hậu tương ứng với Châu Đốc, Sa Đéc) để tạ ơn chúa Nguyễn. Đất miền nam Việt Nam bây giờ thì trước đó là đất của Chân Lạp, tuy nhiên trước đó thì Chân Lạp lại là kẻ chiếm đất của Phù Nam đã từng tồn tại từ khoảng thế kỷ 1 đến thế kỷ 7 tại đồng bằng sông Mekong.

Nặc Tôn lại dâng 5 phủ là Hương Úc, Cần Bột, Trực Sâm, Sài Mạt, Linh Quỳnh để tạ ơn riêng Mạc Thiên Tứ, Mạc Thiên Tứ đem những đất ấy dâng chúa Nguyễn, chúa cho thuộc về trấn Hà Tiên cai quản, 5 phủ này về sau khi Pháp thành lập Liên bang Đông Dương đã cắt trả về cho Cao Miên, ngày nay là 2 tỉnh TakéoKampot

併合西原

[編輯]

阮主時期,西原地區的在向阮主政權朝貢的部落中最有實力的是水Xá和Hỏa Xá。以前,這一帶是占城真臘之間的緩衝區,但並不真正屬於任何一方。根據各個國家在不同時期的實力,它一時屬於占城或真臘,甚至在有些時候,成為過哀牢的一部分。

1830年明命帝將今天的西原地區併入越南版圖,而在當時那裏並沒有京人生活也沒有越南官員的管理。西原地區在那一時期被看作是越南的自治區域。

社會影響

[編輯]

從公元10世紀15世紀初,以使用奴隸勞動力為目的將佔人俘至越南之事時常發生,這是當時人口稀薄的東南亞社會的慣行現象。另外,越南也從當時南海貿易繁榮的占城國掠奪南海產品和金銀財寶。此外,越南將其西南周邊的國家納為朝貢國,以朝貢的形式掠奪財富。

15世紀末以後,越南社會的農村人口逐漸過剩,剩餘人口移居新開拓地的現象有所增加。阮氏政權將這些被稱為「流民」的過剩人口送往殖民的最前線,並將此政策化。開拓的方法則效法古代中國所採用的屯田兵制度。結果,在開墾土地進行農耕的同時,對占城人的反擊也起到了防衛的作用。當有好機會出現時,則用武力擴大土地。這種方法在對占城、柬埔寨的土地掠奪中有所應用。

另外,越南也對中國流亡者勞動力大幅利用。1683年,約3000人的明朝支持者逃到了越南中部的沱灢(今峴港市越南語Đà Nẵng?)。當時,南方的阮主將他們送往了湄公河三角洲地帶。美萩邊和(位於現在的胡志明市近郊)的農業和商業的興盛也與這些明朝支持者有關。另外,從廣東來的難民們,也對河仙越南語Hà Tiên?)周邊的開拓做出了貢獻。這些拒絕跟隨滿清政權的漢人們,在越南南圻越南語Nam Kỳ南圻?)地區結成了堅固的華僑組織。18世紀末,他們曾在對抗西山朝的鬥爭中對阮朝的創始者阮福映提供資助。

外部鏈接

[編輯]

腳注

[編輯]
[幫助]
  1. ^ Nguyen The Anh(阮世英),《Le Nam tien dans les textes Vietnamiens》,in P.B. Lafont;Les frontieres du Vietnam;Edition l』Harmattan,Paris 1989
  2. ^ 桃木至朗,《10~15世紀ベトナム国家の「南」と「西」》,《東洋史研究》51巻第3號,1992年
  3. ^ Hội Bảo tồn Di sản chữ Nôm─《欽定越史通鑑綱目》 始自圖7
  4. ^ 陳仲金《越南史略》,70頁。
  5. ^ 《越史略》(《欽定四庫全書•史部》第466冊),586-587頁。
  6. ^ Việt Nam sử lược》(越南史略)
  7. ^ 陳仲金《越南史略》,70-71頁。
  8. ^ 徐松《宋會要輯稿》蕃夷四之七十一,7749頁。
  9. ^ 吳士連等《大越史記全書》,255頁。
  10. ^ Overview of History of Kingdom of Champa
  11. ^ 馮承鈞編譯的《西域南海史地考證譯叢》丁集〈安南省道沿革表〉文中頁134 之說明
  12. ^ Thừa tuyên Quảng Nam (lập năm 1472, sau khi đánh bại Chiêm Thành)
  13. ^ 陳重金,《越南史略
  14. ^ 陳重金,《越南史略
  15. ^ Encyclopedia of Asian History, Volumn 3 (Nguyen Lords) 1988. Charles Scribner's Sons, New York.
  16. ^ Vietnam, Trials and Tribulations of a Nation by D. R. SarDesai, ppg 33-34, 1988 ISBN 0-941910-04-0
  17. ^ Cambodia